Một vài địa chỉ ẩm thực tại miền Trung

Back     Next

Nội dung của phần này được lấy từ www.vnexpress.net. Quyền có chỉnh sửa đôi chút. Chúc các bạn có những phút giây "lên tiên" như người xưa đă dạy : ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất tiền thêm lo...

Các món ăn miền Trung và nghệ thuật ăn uống Huế

Với bờ biển dài, bề ngang hẹp của miền Trung, mắm ruốc, cá kho, đă đi vào mâm cơm của số đông thay cho "tương cà gia bản" truyền thống của miền Bắc. Món cá ngừ kho chan bún, bánh tráng là đặc sản của dọc suốt duyên hải miền Trung.

Món cá kho phần nhiều là cá biển và thường kho lẫn với các loại rau quả như khế, cà chua, dưa hường, mít non... Món gỏi cũng được chế biến từ cá biển và các loại hải sản như tôm, mực...

Suốt miền Trung cho đến miền Đông Nam Bộ có món gỏi mít non hấp dẫn. Từ đất Quảng, món ḿ Quảng giành được khẩu vị của tất cả các tỉnh miền Trung và tiến vào Sài G̣n với vị trí đặc sản.

Một trung tâm ăn uống lớn của miền Trung là Huế. Món ăn nơi đây là sự chọn lọc các món từ đàng ngoài và cải tiến, nâng cao cho phù hợp với thổ nghi, sản vật Huế.

Cuộc sống vua chúa với nhu cầu hưởng lạc cao chính là thời cơ vàng để các món ăn Huế phát triển. Có thể nói các món ăn Huế là tiêu biểu cho văn minh ăn uống Việt Nam cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ 19.

Món ăn Huế được chế biến công phu, tinh tế. Nhiều người cho rằng ăn các món Huế là thưởng thức cái đẹp, cảm nhận cái hồn của Huế không c̣n thấy cần t́m sự no nê. Ngay những thứ như ḷng lợn, ḷng ḅ vào tay các bà nội trợ Huế cũng trở thành những mỹ vị cao sang. Món cá kho của b́nh dân ba miền khi đến Huế cũng mang màu quư phái: cá bống thệ lẫn thịt ba rọi rau răm, ớt bột, tiêu, đường, nước mắm, nước màu, cho lửa liu riu và con cá kho khi lên đĩa nh́n trong suốt như hổ phách...

Có hàng trăm món Huế và ngày nay, cả nước đều biết đến tiếng mắm tôm chua Huế ăn với thịt lợn luộc kèm khế, vả và các loại rau thơm. Bún ḅ Huế, cơm hến tré, bánh lá... là những món ăn b́nh dân Huế, nhưng ngày nay đă là món đặc sản trong thực đơn các khách sạn sang trọng...

Bánh sắn Quảng Trị

Sắn và khoai là món dân dă đồng quê, nhưng nếu biết chế biến cũng có thể trở thành những món ăn ngon, hấp dẫn. Đối với người Quảng Trị th́ bánh sắn (béng sắn) được coi là đặc sản của địa phương, c̣n gọi là bánh bột lọc.

Bánh sắn được làm từ tinh bột củ sắn (lọc kỹ sau khi xay xát) phơi khô. Bột sắn tươi vừa xay xong được nhồi kỹ với bột đă luộc qua. Nhân bánh làm bằng nhiều loại khác nhau như thịt lợn, thịt gà, tôm, đậu xanh... nhưng ngon và phù hợp hơn cả vẫn là tôm tươi cùng thịt lợn thái nhỏ, ướp gia vị, xào chín tới. Bột sắn được vo thành từng viên tṛn nhỏ, làm dẹt, cho nhân vào giữa gấp lại, nặn thành h́nh vành trăng khuyết, mép bánh phải nặn khít, không để nhân lộ ra ngoài. Bánh làm xong luộc chín, vớt ra chiếc rổ thưa cho ráo nước. Hành khô thái nhỏ phi vàng, rắc lên trên bánh; lá hành, rau ng̣ cắt nhỏ rồi xếp ra đĩa.

Bánh sắn mầu trắng nổi bật giữa hành, ng̣ mầu xanh, bên vài lát ớt đỏ tươi. Mùi thơm của bánh ḥa với mùi hành phi tỏa ra thật quyến rũ. Bánh sắn dẻo, dai với nhân tôm thịt thơm ngon, ăn cùng bánh đa nướng gịn tan tạo nên hương vị thật khó quên.

Bánh sắn c̣n được chế biến bằng cách bọc trong lá chuối hoặc nắm thành từng nắm nhỏ ở giữa có chiếc đũa xiên qua rồi hấp... Ngày nay, người dân Quảng Trị đă giàu hơn, nhưng bánh sắn vẫn là món ăn ngon, hấp dẫn.

Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn ấm t́nh quê xứ Nghệ

Tuy không phải là cao lương mỹ vị, nhưng hai món ăn dân dă trên đă trở nên thân thuộc không chỉ riêng cho người xứ Nghệ, mà cho cả những ai một lần nếm thử chúng hoặc có dịp ghé qua vùng đất này.

Bất kỳ gia đ́nh nào ở Nam Đàn cũng biết làm tương. Ngoài việc dùng cho bữa ăn hàng ngày, họ c̣n làm tương để dành biếu bạn bè gần xa. Muốn có một chum tương ngon, công việc đầu tiên là chọn loại lương thực để làm mốc, thường là gạo tẻ, gạo nếp, kê hoặc ngô. Nguyên liệu này sau khi nấu (đồ) lên được rải đều ra nia và phun một lớp nước chè xanh đặc sánh trước khi phủ lớp lá dày để đem đi ủ trong buồng kín. Thông thường người ta chọn lá nhăn, lá chuối, lá chè xanh hoặc lá ráng để phủ v́ có khả năng giữ nhiệt tốt. Trong thời gian ủ, việc thăm và đảo mốc được thực hiện từ 1-2 lần. Sau 12-15 ngày nếu mốc lên đều có màu vàng da cam hoặc màu đen óng như mật là được. Lúc này mốc được bóp vụn ra, đem phơi nắng cho thật gịn và cuối cùng là cho vào túi nilon giữ kín chờ ngày ngả tương.

Song song với quá tŕnh phơi mốc, người làm tương phải rang chín đỗ tương lên, đem nấu thành nước, vớt bỏ vỏ sau đó cho vào chum và đem phơi nắng. Mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều, chum tương phải được khuấy đều với thời gian 10 phút/lần, đồng thời phải được thực hiện khi không có ánh mặt trời. Nếu làm sai quy tŕnh này hoặc đang trong giai đoạn phơi gặp đợt mưa kéo dài nhiều ngày chum tương rất dễ bị chua hoặc có mùi khó chịu. Sau 7-9 ngày phơi nắng tương bắt đầu được ngạ. Ngạ tương, thường thực hiện vào buổi khuya, là quá tŕnh trộn 2 thứ mốc và muối đă rang (không được dùng muối iốt) vào chum nước tương đă phơi (tỷ lệ 1-1-1). Sau đó một tuần, ta đă có một chum tương vừa ngon vừa thơm, màu óng ánh dùng để ăn quanh năm.

Nếu như Nam Đàn có nghề làm tương th́ Thanh Chương lại nổi tiếng với nghề làm nhút. Nhút Thanh Chương thường là nhút mít. Những vườn mít trĩu trái của Thanh Chương là  nguyên liệu chính cho món ăn này.

Mít non gọt vỏ, loại bỏ hột được thái mỏng ra, ngâm nước gạo cho thật trắng, một ngày sau vớt ra trộn lẫn vài thứ lá gia vị và đem muối như muối dưa cải. 1-2 tuần sau là có thể ăn được. Nhút có màu trắng nơn, thơm ngon, ăn có vị bùi và béo.

Có dịp bạn hăy về xứ Nghệ, để thưởng thức hai món ăn b́nh dị nhưng mang nét đặc trưng này và nghe những làn điệu dân ca lắng ngọt đến nao ḷng của làng quê nơi đây...

Cháo lươn Vinh

Món lươn có thể chế biến theo nhiều cách và ở nơi nào cũng có: lẩu lươn Nam bộ, miến lươn Hà Nội... Thế nhưng cháo lươn Vinh lại có hương vị dung dị riêng mà không đâu có được. Bát cháo ngọt lịm bởi nước xương với lươn xào cay xé lưỡi.

Ở xứ Nghệ, ăn uống thường “chặt to kho mặn” vậy mà món cháo lươn lại cầu kỳ hơn bất cứ món ăn nào khác. Lươn phải chọn những con màu vàng, rửa sạch rồi cho muối vào xóc đều. Gặp mặn, lươn xót và giăy chết, tự tiết ra hết chất nhờn. Lấy lá giới (loại lá nham nhám) tuốt nhẹ cho hết nhớt, sau đó mới cho vào nồi. Lươn vừa chín tới là đưa ra tuốt lấy thịt. Những sợi lươn dài óng ánh được ướp gia vị, nào nước mắm Cửa Ḷ, nào bột nghệ, nào ớt cay, hạt tiêu, hành củ… rồi được xào lên thơm nức.
Bát cháo được múc từ trong nồi c̣n nóng bỏng, gắp lươn từ trong chảo bỏ vào, thêm mùi tàu, rau răm, hành hoa và ít lát ớt tươi rồi trộn đều. Những giọt cháo từ trên th́a rớt xuống, sóng sánh như mật ong. Những sợi lươn dài một cách tài t́nh, bùi và thơm nức nhưng vẫn mang hương vị của đồng nội. Thế mà lạ, các cô cậu ở Hà Nội, vốn ít cay, vào Nghệ du lịch ăn bát cháo lươn Vinh bỏng rát lại yêu ngay cái món đặc sản này và không ngớt gọi chủ quán thêm lươn, thêm ớt, thêm tiêu, mặc cho nước mắt, nước mũi giàn giụa.
Quà sáng ở Vinh vốn đơn sơ và ít chủng loại nên cháo lươn là đầu bảng. Ông giám đốc, bà nội trợ, cô sinh viên, bác xích lô… tất cả đều một bát cháo, bà chủ chỉ “điều chỉnh” lươn nhiều hay ít tuỳ theo hầu bao thực khách.

Nem chua Thanh Hoá

Chả tôm, nem gị Đông Hương, chè lam Phủ Quảng, bưởi Luận Văn, bánh gai Tứ Trụ là những món ăn nổi danh của Thanh Hoá… Bên cạnh đó, nem chua nơi đây có thể nằm vào danh sách ẩm thực của những người sành ăn.

Nem th́ nơi nào cũng có: Hà Nội, Sài G̣n, Lai Vung... nhưng nem xứ Thanh có hương vị dung dị riêng không thể trộn lẫn.
Nghề nem cũng lắm công phu, cầu kỳ nhất là ở chỗ chọn nguyên liệu. Thịt được chọn làm nem c̣n kén hơn cả làm gị nạc. Đúng nhất phải là thịt nạc mông lợn ỉn, không lớn nhưng không nhỏ quá để bảo đảm hàm lượng nước trong thịt ít. Trước đây thịt làm nem phải giă chày thủ công vất vả, phải giă nhuyễn và mịn. Bây giờ đă có máy xay, quết, nghiền thịt, máy sắt thay lao động cơ bắp vất vả bao đời nay.
Cùng với thịt là b́ lợn. B́ không phải để độn, mà cùng với một tỷ lệ vừa phải, thêm chút hàn the làm cho quả nem có vị gịn. Đây là khâu khó nhất. Sau khi luộc, b́ được làm sạch lấy hết chân lông.
Nem ngon được gói vuông vắn có đủ hương vị lá ổi thơm hoặc lá đinh lăng, điểm hạt tiêu, có mùi thơm, ăn không quá ngọt và chua. Nem gói vừa ăn khoảng 68-70 giờ là vừa. Tiết trời se lạnh nem có thể giữ, bảo quản ăn trong 5-6 ngày… Với giá rẻ 5.000 đồng một chục quả nem, thêm chén rượu trắng, ít rau ngổ, húng thơm tương ớt mà nhâm nhi th́ tuyệt vời.

Ẩm thực cung đ́nh Huế

Nhà văn Nguyễn Tuân đă từng nhận xét rằng “người Huế ăn bằng mắt, bằng mũi trước khi ăn bằng miệng”. Bởi rau, dưa, củ được tỉa thành những bông hoa, rau muống ăn sống phải chẻ như sợi bún, bánh đậu xanh được nặn thành h́nh trái cây với màu sắc như thật, chả thịt lợn kết hợp với rau củ xếp thành h́nh công, phượng.

Nói đến ăn uống xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đ́nh, một phong cách ẩm thực được h́nh thành để phục vụ triều đ́nh nhà Nguyễn trong hơn một thế kỷ đóng đô ở đây. Mặc dù nền quân chủ ở nước ta đă sụp đổ từ lâu, nhưng trong hồi ức một số người cao tuổi, Huế vẫn c̣n giữ được một phần h́nh ảnh ăn uống chốn cung đ́nh xưa. Theo sách Đại Nam hội điển sự lệ biên soạn dưới thời nhà Nguyễn, th́ Quang Lộc Tự là cơ quan lo việc cỗ bàn triều đ́nh, gồm cỗ cúng trong những ngày lễ trọng đại, ban yến cho các vị tân khoa đỗ tiến sĩ. Cỗ bàn thường được chia thành các loại: Cỗ hạng lớn gồm 161 phẩm vị, cỗ ngọc soạn có 30 đĩa, cỗ quư có 50 phẩm vị, cỗ điểm tâm có 12 vị. Ngoài ra, c̣n có cỗ chay để cúng ở các chùa, hạng nhất có 25 món, hạng hai có 20 món...

Theo lời người trong hoàng tộc kể lại th́ có một món ăn lạ là “sâu mây”. Đây là một loại ấu trùng sống trong thân cây mây mọc trên rừng. Người ta chặt mây, lấy những con sâu đó đem thả vào ngọn cây mía trồng trong vườn. Con nhộng đục thân mía để ăn, chờ đúng ngày nhộng vừa lớn mới chẻ cây mía ra lấy. Ngoài ra, c̣n có một loại thức ăn được vua chúa nhà Nguyễn ưa thích, đó là con đuông sống trên ngọn cây dừa, muốn lấy nó người ta phải chặt đi cả cây.

C̣n theo những người già kể lại, các bữa ăn hàng ngày của ông hoàng bà chúa trong cung không khác những bữa ăn của dân thường là bao. Vào đầu thế kỷ này, một vị phu nhân trong hoàng tộc đă ghi lại những món bà thường ăn để truyền cho con cháu học theo. Tập sách mỏng có tên là Thực Phổ Bách Thiện, giới thiệu 100 món ăn theo thể văn vần. Đó là những món ăn thông thường, chỉ khác ở chỗ cách nấu nướng sạch sẽ, thực phẩm có chọn lọc hơn và đặc biệt là cách tŕnh bày đẹp và tinh xảo.

Phong cách ẩm thực cung đ́nh ngày nay đang được tái hiện trong những thực đơn của khách sạn và nhà hàng ở Huế. Du khách có thể tới Tịnh Gia Viên của nghệ nhân Tôn Nữ Hà, t́m lại h́nh ảnh của những bữa ăn cầu kỳ trong khung cảnh vườn cây của các dinh thự xưa. Đến 15 Tống Duy Tân, để chiêm ngưỡng những bông hoa hồng, hoa cúc sống động như thật do nghệ nhân Hương Trà làm từ bột đậu xanh. Nhưng để thưởng thức không khí đích thực của chốn hoàng cung, th́ hăy t́m đến phủ đệ xưa của cung An Định. Nơi đây, h́nh ảnh buổi dạ yến xưa được làm sống lại, khiến du khách như đang trong khung cảnh thực của một đêm mùa thu xứ Huế, nhưng lại mang không khí hư ảo của một thời xa xưa.

Hương vị Quảng Nam

Đến Quảng Nam mà không tận hưởng hương vị đặc biệt của tô ḿ Quảng, không biết đến thịt lợn cuốn bánh tráng th́ quả là thiếu sót. Với người dân xứ Quảng vào những dịp giỗ chạp, đón khách quư, ḿ Quảng là món ăn khó có thể thiếu.

Ḿ được làm bằng bột gạo mùa xay mịn, tráng thành bánh, quét lên một lớp dầu lạc mỏng, xắt thành sợi. Nước dùng được làm từ thịt gà, có nơi dùng thịt lợn, tôm tươi. Nước dùng của ḿ Quảng ít chứ không như nước phở Bắc, nhưng rất ngọt và đậm đà. Rau sống thường là rau thơm, rau húng quế cùng với bắp chuối sứ non xắt mỏng. Nh́n tô ḿ, dưới là rau sống, bên trên trải đều những sợi ḿ trắng, được chan nước với những miếng thịt gà hay thịt lợn, tôm béo ngậy, thơm lừng, thêm ít lạc rang vàng ắt hẳn bạn sẽ nghe thấy lời "réo gọi tha thiết" từ cái dạ dày. Có thể cho thêm ít tiêu, mấy lát ớt chín, vắt múi chanh, thêm chút mắm, một th́a dầu lạc phi hành tùy theo khẩu vị. Với những người sành điệu th́ c̣n phải thêm một cái bánh tráng nướng gịn bóp vụn vào ḿ. Ḿ Quảng ăn nóng mới ngon.

Cùng với ḿ Quảng, Quảng Nam c̣n có một món ăn độc đáo nữa là bánh tráng cuốn thịt lợn. Chuẩn bị cho món này đơn giản, chỉ cần rau sống, bánh tráng, thịt lợn luộc, nước chấm. Thịt lợn luộc xắt mỏng, phần da và mỡ trắng ngần nhưng phần nạc th́ luôn giữ được màu hồng, thịt mềm và thơm lừng, cái độc đáo, khác thường đáng nói là không biết bằng cách nào họ lại để phần ngon này ở giữa c̣n hai bên là hai lớp da và mỡ mà không hề có điểm nối. Rau sống được làm từ giá và xà lách, các loại rau thơm và không thể thiếu bắp chuối sứ non xắt mỏng, rau muống chẻ. Bánh tráng bây giờ được dùng tùy theo khẩu vị từng nơi nhưng thường th́ người ta hay dùng một loại bánh tráng làm riêng để cuốn. Loại bánh này không mỏng như bánh đa nem của người Bắc nhưng cũng không dày, có độ dai vừa đủ. Trước khi ăn, ta tráng qua một lớp nước mỏng để bánh dịu lại, khi quấn không bị rách và không bị cứng lúc ăn. Nước chấm phải chọn được từ mắm cái cá cơm, vừa thơm, vừa ngọt có độ mặn và chua vừa đủ lại hơi cay cay. Người ta không dùng đũa mà chỉ dùng tay. Trải bánh tráng lên ḷng bàn tay bốc rau sống rải đều theo chiều ngang của bánh, tiếp đến là để miếng thịt cùng chiều rau, cuốn trên cái bánh như cách quấn nem, dùng kèm với nước chấm thế là bạn đă có một quấn bánh tráng cuốn thịt lợn đậm đà hương vị đồng nội Quảng Nam.

Với người dân xứ Quảng khi sống xa quê hương, ḿ Quảng và bánh tráng thịt lợn có thể tự làm ăn trong gia đ́nh khi nhớ về quê cha đất tổ nhưng có một món chỉ có thể t́m thấy ở quê hương vào đúng ngày tết đó là bánh tổ. Bánh tổ làm bằng bột trộn đường đem hấp, muốn ngon th́ bột nếp phải là thứ thơm và mè, đường dùng là đường bánh, thắng lên cho thêm ít gừng bỏ phần cặn, đổ nước đường vào bột quấy thật đều để khi hấp khỏi bị nhăo. Sau đó cho bột vào lá chuối, đặt vào rọ đem hấp. Khi hấp, phải giữ cho mặt bánh không bị rỗ. Mè đem rang. Khi bánh đă chín, rắc mè lên trên, đem phơi để tránh bị mốc. Bánh tổ có thể ăn ngay sau khi hấp chín. Thường là người đất Quảng hay để bánh lâu, trước khi ăn, đem bánh rán trong mỡ hoặc dầu.

Bánh bèo xứ Huế

Không biết có từ bao giờ, nhưng bánh bèo đă là một đặc sản, một món ăn không thể thiếu của người dân xứ Huế. Bánh bèo có mặt từ mâm cơm dân dă ở mỗi gia đ́nh cho đến các bữa tiệc, ngày lễ, ngày Tết và các dịp đăi khách trọng thể.

Bánh bèo làm không khó, nguyên liệu làm bánh chỉ là gạo xay thành bột mịn, đem ngâm nước vài phút để có độ dẻo, lỏng vừa phải, sau đó múc vào từng chén nhỏ, xếp vào vỉ đem hấp chín bằng hơi. Khi bánh chín cho thêm gia vị như: tôm giă thật nhỏ, một ít dầu béo thực vật tưới lên chén bánh trước khi ăn. Nước chấm bánh bèo được nấu từ tôm tươi nên vừa có vị ngọt, vừa béo. Khi ăn, tùy khẩu vị từng người mà dùng ớt cho vừa...

Có dịp đến Huế, mới thấy bánh bèo gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân cố đô như thế nào. Khoảng từ 3 đến 5h chiều, đâu đó trên các ngơ phố những phụ nữ gọn gàng trong bộ áo dài thong thả bách bộ với quanh gánh nhẹ trên vai hoặc chiếc thúng nhỏ cắp ngang hông, đi bán bánh bèo, bánh lọc đến từng nhà. Người Huế rất thích và đă thành thói quen dùng loại bánh mang đậm hương vị quê nhà này cho các bữa ăn phụ, chỉ cần 1.000 đồng là đă có một đĩa bánh bèo lót dạ thơm ngon.

Bánh bèo cũng không thiếu trong các bữa "cơm vua" phục vụ khách du lịch và trong các bữa tiệc "cơm cung đ́nh" chiêu đăi các khách quư.


Back     Next

Home